Mở đầu Tây Du Ký, tác giả Ngô Thừa Ân viết: “Dục trị tạo hóa hội nguyên công, tu khán Tây Du thích ách truyện”, ý nói rằng: Muốn biết công của tạo hóa ra sao, muốn hiểu được ý nghĩa của đời người thế nào, vậy cần phải hiểu Tây Du Ký.


Có người nói, nếu bạn có thể thật sự hiểu được Tây Du Ký, vậy thì bạn đã thấu hiểu hết thảy mọi khổ nạn trên thế gian, cũng là hiểu được ý nghĩa thật sự của cuộc đời này.

Cũng có người cho rằng, Tây Du Ký xứng đáng ở vị trí đầu tiên trong tứ đại danh tác, hơn nữa đó còn là tác phẩm vĩ đại nhất trên thế gian.

Bề mặt là câu chuyện trừ yêu diệt quái, nhưng thật ra nội hàm chân chính của Tây Du Ký là con đường hàng phục ma tính của một người tu hành. Thông qua câu chuyện thần thoại sang Tây Thiên thỉnh kinh, tác giả đã dẫn dắt chúng ta cách khắc phục nội tâm trên con đường nhân sinh, hàng phục tâm ma, cuối cùng lấy được Chân Kinh, thành tựu đời người.


1. Ngũ vị nhất thể

Trong Tây Du Ký, năm vị gồm bốn thầy trò Đường Tăng cùng với Bạch Long Mã, thật ra chỉ là một người, trong truyện cũng nhiều lần ám chỉ về điều này. Đoạn cuối cùng của tác phẩm khi viết đến “Ngũ Thánh thành chân” có một bài thơ nói rõ hơn ý tứ đó, trong đó bốn câu mở đầu là:

“Một thể chân như lạc xuống trần, 
Hợp hòa bốn tướng lại tu thân.
Ngũ hành sắc tướng không rồi tịch, 
Trăm quái hư danh thấy chẳng bàn”.

Trong đó, Tôn Ngộ Không là tượng trưng cho cái tâm, Đường Tăng là thân thể, Trư Bát Giới là tình cảm và dục vọng, Sa hòa thượng là bản tính, và Bạch Long Mã là ý chí của con người.

Thực ra, tác giả đã nói rõ điều này trong những chương hồi đầu tiên của tác phẩm. Tôn Ngộ Không khi tầm sư học đạo trở thành đệ tử của Bồ Đề Tổ Sư trên núi Linh Đài Phương Thốn, động Tà Nguyệt Tam Tinh. Ở đây, Tà Nguyệt Tam Tinh (trăng khuyết và ba vì sao) chính là chữ “Tâm” (心). “Tà Nguyệt” chẳng phải chính là một nét móc đó sao? Ba ngôi sao chẳng phải chính là chỉ ba nét chấm đó sao? Vậy nên, Tôn Ngộ Không là thể hiện cho chữ Tâm của người tu hành.


Người Trung Hoa có câu: “Tâm viên ý mã” (tâm con vượn, ý con ngựa), nghĩa là tâm trí con người ta thường xáo động và dễ mất kiểm soát. Cũng bởi vì tâm người luôn bay nhảy tự do như vậy, nên tư tưởng con người có thể qua lại giữa thiên đường và địa ngục, có thể dao động giữa thiện và ác. Vì vậy, về sau này Quan Âm Bồ Tát đã phải tặng cho Đường Tăng chiếc vòng kim cô và bài “Khẩn cô nhi chú” để khắc chế cái tâm này.

Trong Kinh Lăng Nghiêm còn viết rằng: “Tâm có 72 tướng”, tương ứng với 72 phép biến hóa của Ngộ Không. Cái tâm của người đời rất giỏi biến hóa, chỉ trong chốc lát có thể biến ra các loại tâm thái khác nhau.

Luyện tâm có thể khiến lòng người sáng sủa, trí huệ sáng suốt, vậy nên lò Bát Quái không thể thiêu chết mà trái lại còn khiến Tôn Ngộ Không luyện thành hỏa nhãn kim tinh. Mắt của Ngộ Không sáng tỏ là tượng trưng cho trí huệ sáng rực như vàng kim.

Bên cạnh đó, chiếc gậy Như Ý và Cân Đẩu Vân của Ngộ Không cũng ẩn chứa những hàm nghĩa sâu sắc.


Gậy Như Ý nặng 1 vạn 3 nghìn 5 trăm cân, giống với những điều được viết trong Hoàng Đế Bát Thập Nhất Nan Kinh: “Cả ngày lẫn đêm, con người ta thở 1 vạn 3 nghìn 5 trăm nhịp”. Vậy nên, gậy Như Ý là tượng trưng cho khí.

Trên đời này, thứ gì có thể “trên thì lên đến 33 tầng trời, dưới thì xuống tới 18 tầng địa ngục; lớn thì có thể thông thấu khắp trời, nhỏ thì như cái kim thêu”? Chính là khí độ của con người.

Cân Đẩu Vân của Tôn Ngộ Không lộn nhào một cái là đi được 10 vạn 8 nghìn dặm, nhưng lại không thể nhảy ra khỏi lòng bàn tay của Phật Như Lai. Đó là nói, con người dẫu làm gì thì cũng không thể thoát khỏi bàn tay của Phật Tổ.

Cân Đẩu Vân của Ngộ Không có thể bay 10 vạn 8 nghìn dặm, vừa khéo lại là khoảng cách từ đông thổ Đại Đường đến Linh Sơn, điều này có ngụ ý gì? Đó chính là: Linh Sơn dù có xa hơn nữa thì cũng chỉ một niệm của tâm là có thể đến nơi. Thiện ác chỉ cách nhau một niệm, một niệm có thể thành Phật, nhưng một niệm cũng có thể biến thành tà ma.


Tôn Ngộ Không bị giam dưới núi Ngũ Hành suốt 500 năm, tượng trưng cho cái tâm lên trời xuống đất của con người bị Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ trong thế giới trần tục đè chặt.

Núi Ngũ Hành cũng tượng trưng cho “tham (tham lam), sân (giận dữ), si (ngu si), mạn (ngạo mạn), nghi (hoài nghi)” trong Phật học. Phật Tổ nói rằng, 5 chữ ấy đã khái quát mọi tâm niệm thân hành của con người. Dù Ngộ Không có thần thông quảng đại đến đâu, vẫn không nhảy ra khỏi 5 chữ này. Tôn Ngộ Không khi đại náo Thiên Cung, cũng chính là bị ngũ độc này vây khốn.

Về sau, khi thầy trò Đường Tăng đến Hoả Diệm Sơn, núi Ngũ Hành đã trở thành Lưỡng Giới Sơn (ngọn núi giữa hai ranh giới). Đi qua ngọn núi này, cái tâm từng xáo động không yên đó cuối cùng cũng có thể nhảy ra khỏi Tam Giới.

Bạch Long Mã là ý chí lực. Ý chí của con người giống như ngựa hoang, chỉ khi xác định được mục tiêu tiến tới, mới có thể chuyên tâm chuyên ý mà lấy được Chân Kinh.

Ngộ Không thu phục Tiểu Bạch Long, cũng chính là cái Tâm đã thu phục được Ý, đạt đến tâm ý hợp nhất. Chỉ cần tâm ý hợp nhất, chí hướng kiên định thì không có Tây Thiên nào là không đến được.

Về sau, Ngộ Không và Đường Tăng lại thu phục được Bát Giới và Sa Tăng, nghĩa là “thân, tâm, tình, tính, ý” – đoàn thể hoàn mỹ nhất này đã hợp thành.

Tóm lại, thầy trò Đường Tăng diệt trừ yêu quái trên suốt chặng đường sang Tây Thiên, thật ra chính là người tu hành đang trừ bỏ ma tính trên con đường nhân thế, do đó lấy kinh cũng chính là một quá trình dưỡng tính tu tâm. Linh Sơn thật sự, chính là ở trong tâm người.


2. Linh Sơn là ở trong Tâm người

Trong hồi thứ 19, khi thầy trò Đường Tăng vừa mới bước trên con đường lấy kinh, Ô Sào thiền sư đã truyền thụ cho Đường Tăng một bộ “Đa Tâm Kinh”. Nhưng Đường Tăng vẫn không hiểu ý, cuối cùng mãi đến hồi 85, Ngộ Không phải nhắc nhở Đường Tăng rằng:

“Phật tại Linh Sơn mạc viễn cầu, 
Linh Sơn chỉ tại nhữ tâm đầu. 
Nhân nhân hữu cá Linh Sơn tháp, 
Hảo hướng Linh Sơn tháp hạ tu.”

(Phật ở Linh Sơn lọ phải cầu, 
Linh Sơn trước mắt lại tìm đâu! 
Ai ai cũng có Linh Sơn tháp, 
Tu ở Linh Sơn đạo rất mầu).

Bởi cần phải tu Tâm để trừ dứt ma tính thì mới có thể đánh thức chính mình, mới có thể lĩnh ngộ được Phật Pháp. Do đó, đến lúc này Đường Tăng đã đáp lại rằng: “Đồ đệ ạ, ta há không biết sao? Nếu theo bốn câu ấy, dù thiên kinh vạn quyển cũng chỉ là tu Tâm.”


3. Quá trình sang Tây Thiên chính là quá trình trừ bỏ ma tính

Tôn Ngộ Không vừa mới phò giá Đường Tăng đã đánh chết 6 cường đạo. Trong nguyên tác, tên của 6 cường đạo này lần lượt là: Nhãn Khán Hỷ (Mắt thấy mừng), Nhĩ Thính Nộ (Tai nghe giận), Tỵ Khứu Ái (Mũi ngửi thích), Thiệt Thường Tư (Lưỡi nếm nghĩ), Thân Bổn Ưu (Thân vốn lo), Ý Kiến Dục (Ý thấy muốn) – đây chính là lục căn.

Tôn Ngộ Không đánh chết lục căn, cho thấy lục căn phải thanh tịnh thì mới có thể lên đường lấy Chân Kinh.

Trong suốt hành trình sang Tây Thiên, trước khi Ngộ Không đi xin cơm chay thường vẽ một vòng tròn lớn trên mặt đất, đây chính là giới hạn mà Tâm đặt cho con người, nhưng thân thể của con người (Đường Tăng) lại thường hay bị dục vọng (Trư Bát Giới) dẫn dụ mà xa rời giới hạn ấy.

Vậy là bốn thầy trò dễ dàng rời khỏi giới hạn mà Ngộ Không đặt ra, và khi bước ra khỏi giới hạn ấy họ liền gặp phải các loại yêu ma.

Ngộ Không mở đường dẫn dắt bốn thầy trò tiến về phía trước, trên đường lại không ngừng diệt trừ yêu quái, ý nói rằng Tâm đang hàng phục ma tính.

Mỗi một yêu quái trên đường sang Tây Thiên đều có ngụ ý sâu xa. Hết thảy yêu quái đều là một ẩn dụ, thảy đều là huyễn hóa của ma tính. Mỗi một yêu quái là đại biểu cho Danh – Lợi – Tình nơi thế gian đang trói buộc con người, hết thảy đều xuất phát từ ma tính của bản thân một người.

Ví dụ, Hắc Hùng Tinh xuất hiện trong hồi thứ 16 là do sân niệm của Ngộ Không xui khiến. Hắc Hùng Tinh nổi lửa thiêu hủy thiền viện Quan Âm, cũng chính là ma tính đang trở ngại người tu đắc chính quả.

Ngưu Ma Vương cũng là do ma tính của Ngộ Không biến hóa. Ban đầu, Ngưu Ma Vương cùng Tôn Ngộ Không kết bái huynh đệ, lực lượng ngang nhau, vậy nên phát hỏa (nổi nóng) cũng chính là bản thân đang so tài với chính mình.

Hồng Hài Nhi và Hỏa Diệm Sơn đều là ngọn lửa trong tâm. Nguyên nhân Hỏa Diệm Sơn hình thành là do năm xưa khi Tôn Ngộ Không chui ra từ lò Bát Quái, vì để trút cơn giận mà đá một miếng gạch chịu lửa xuống trần. Vì cái tâm không chế ước ngọn lửa của bản thân, nên cuối cùng lại đốt cháy chính mình.

Hồng Hài Nhi tượng trưng cho ngọn lửa thù hận. Hồng Hài Nhi phóng Tam Muội Chân Hỏa thiêu cháy Ngộ Không là ngụ ý rằng, một người luôn sống trong thù hận, thì cuối cùng sẽ chỉ làm tổn thương cái tâm của mình.

Hoàng Phong quái biết thổi Tam Muội Thần Phong, đây là đại biểu cho phong khí của xã hội, phong khí xã hội có thể khiến trái tim con người (Ngộ Không) mê mờ lạc mất phương hướng.

Ba hình tượng biến hoá của Bạch Cốt Tinh lần lượt đại biểu cho Tình – Ái – Dục của một người. Ngộ Không đã đánh chết toàn bộ chúng, nói rõ rằng trên đường đời chúng ta nhất định phải khống chế vững tình, ái, dục của bản thân, chớ để nó trở thành chướng ngại tiến bước của chúng ta.

Ngoài ra, Bạch Cốt Tinh (bộ xương trắng thành tinh) cũng tượng trưng cho thân xác phàm của con người. Thân thể có thể khơi dậy bản năng dục vọng, vậy nên Trư Bát Giới bắt đầu ly gián, khiến con người thất lạc mất nội tâm của mình, vì vậy Đường Tăng đã đuổi Ngộ Không đi.


4. Yêu quái là tượng trưng cho các loại mê hoặc của thế gian

Kim Giác và Ngân Giác

Kim Giác và Ngân Giác vốn là 2 đồng tử coi lò luyện đan của Thái Thượng Lão Quân, trốn xuống trần rồi trở thành yêu quái tại núi Bình Đỉnh, động Liên Hoa. Khi thầy trò Đường Tăng đi ngang qua đây, Kim Giác và Ngân Giác đã dùng sợi dây thừng trói chặt Tôn Ngộ Không, sau lại dùng Tử Kim hồ lô nhốt lấy Tôn Ngộ Không.

Ở đây, từ tên gọi có thể thấy Kim Giác đại vương và Ngân Giác đại vương là tượng trưng cho sức mê hoặc của kim tiền, bởi kim tiền có thể trói chặt, phong bế tâm con người, khó mà thoát ra được.

Hoàng Mi Quái

Hoàng Mi Lão Quái giả dạng Phật Tổ ở chùa Tiểu Lôi Âm, đã dùng não bạt vàng nhốt chặt Tôn Ngộ Không. Pháp bảo não bạt vàng này cũng tượng trưng cho tiền bạc, bởi tiền bạc có thể vây hãm cái tâm người ta.

Yêu tinh nhện, rết, và bọ cạp

Bảy con nhện tinh đại biểu cho thất tình lục dục của con người. Thất tình lục dục cũng giống như tấm lưới do nhện giăng lên, có thể trói chặt con người.

Người đời bởi tư niệm sinh tình, bị tơ tình vây khốn. Trên thân của yêu tinh rết có nghìn con mắt, đó chính là tượng trưng cho các loại dục vọng vật chất mà mắt người thấy được.

Bọ cạp tinh đại biểu cho mỹ sắc, mỹ sắc sẽ dẫn dụ người ta giống như con bọ cạp, vậy nên thầy trò Đường Tăng đều không địch nổi nó.

Lục nhĩ mỹ hầu

Mỹ hầu vương thật giả, một Tôn Ngộ Không chân tâm hướng Phật đã đánh bại được một Ngộ Không giả không thật lòng hướng Phật. Đây là hai loại ý chí, hai loại tư tưởng của bản thân trong một người đang tranh đấu với nhau. Đã sinh ta “hai lòng” thì cần phải trừ bỏ hai lòng này; chỉ cần trừ bỏ hai lòng, một lòng một ý, mới có thể đạt được thành công. Vậy nên Tôn Ngộ Không giả bị đánh chết, thầy trò mới có thể tiếp tục lên đường.

Trong sách cũng nói, một nạn này là do ma tính của bốn thầy trò sinh ra: Cái tâm ngông cuồng của Tôn Ngộ Không, cái tâm mê muội không phân thật giả của Đường Tăng, cái tâm đố kỵ của Trư Bát Giới, Sa Tăng, cái tâm ngờ vực lẫn nhau giữa mấy huynh đệ thầy trò…

Quốc trượng nước Tỳ Khưu

Trong hồi thứ 79, quốc trượng của nước Tỳ Khưu vốn là yêu tinh biến thành. Vì để luyện thuốc trường sinh, yêu tinh đã bắt giữ một nghìn đứa trẻ để mổ bụng lấy tim, sau lại đòi lấy tim của Đường Tăng. Tôn Ngộ Không đã nhanh trí biến thành hình tượng của sư phụ, rồi lên điện diện kiến quốc trượng. Trong sách viết rằng:

“Đường Tăng giả cầm số tim máu chảy ròng ròng, bới từng quả cho các quan xem, thấy toàn là những quả tim đỏ, tim trắng, tim vàng, tim tham lam, tim danh lợi, tim đố kỵ, tim mưu mẹo, tim hiếu thắng, tim hãnh tiến, tim khinh mạn, tim sát hại, tim độc ác, tim sợ sệt, tim tà vọng, tim vô danh, tim mờ ám… toàn là các loại tim xấu xa, chẳng thấy có một quả tim đen nào”.

Tôn Ngộ Không biến thành Đường Tăng giả là ví rằng Đường Tăng và Ngộ Không lúc này đã hợp hai thành một; y mổ cái bụng của mình, rơi ra một đống trái tim, cũng tượng trưng cho “đa tâm”.

Chúng ta thường nói “trong lòng hươu chạy”, người có “hai lòng” sẽ sinh ra tai họa, huống hồ là nhiều tâm như vậy. Chỉ khi thu phục yêu tinh này thì trong lòng mới không có hươu chạy loạn xạ nữa, “đa tâm” đã trở thành “nhất tâm”, một lòng một ý mới có thể thành công.

Cửu Linh Nguyên Thánh

Ba huynh đệ Ngộ Không thích làm thầy thiên hạ, ở Ngọc Hoa châu đã thu nhận ba vị hoàng tử của quốc vương làm đồ đệ, dạy cho họ võ công. Thích làm thầy thiên hạ, không khiêm tốn, bởi vậy đã chiêu mời sư tử tinh, vốn là cháu nuôi của Cửu Linh Nguyên Thánh.

Cửu Linh Nguyên Thánh là một con sư tử 9 đầu, vốn là thú nuôi của Thái Ất Thiên Tôn ở cung Diệu Nham. Đây là một trong những yêu quái lợi hại nhất trên đường sang Tây Thiên, có thể dễ dàng bắt được Tôn Ngộ Không.

Sư tử 9 đầu tượng trưng cho “cửu tư” (9 điều suy nghĩ). Khổng Tử nói: “Bậc quân tử có chín điều suy nghĩ”. Một người nếu như làm được “chín điều suy nghĩ” chính là có thể trở thành bậc Thánh, “cửu tư thành Thánh”, vậy nên mới có tên gọi là Cửu Linh Nguyên Thánh.

5. Khắc phục ma tính của tự thân mới có thể thấy được Linh Sơn

Cuối cùng, Tôn Ngộ Không (Tâm) được phong làm Đấu Chiến Thắng Phật — cho dù chúng ta bắt tay vào việc gì, chỉ cần có thể ước thúc nội tâm của tự thân thì mới đạt được thành công.

Đường Tăng (Thân thể) được phong là Chiên Đàn Công Đức Phật — làm người cần phải thân tâm hợp nhất, mới có thể lấy được Chân Kinh.

Trư Bát Giới (Tình cảm dục vọng) được phong làm Tịnh Đàn Sứ Giả — dục vọng không trừ bỏ được, vậy nên cuối cùng chỉ được phong làm sứ giả.

Sa hòa thượng (Bản tính) được phong làm Kim Thân La Hán — cũng là nói, bản tính trân quý giống như vàng ròng vậy.

Bạch Long mã (Ý chí) được phong làm Thiên Long Bát Bộ Hộ Pháp — cần phải thời thời khắc khắc bảo vệ ý niệm của mình, vậy nên được phong làm Hộ pháp.

Sau cùng Phật Tổ cho nhóm thầy trò kinh không chữ, chính là vì kinh không chữ mới là Chân Kinh.

“Kinh” trong vô tự kinh, là ý chỉ những việc đã trải qua. Những việc trải qua trên suốt chặng đường này mới là “Kinh” chân chính, vượt xa những văn tự nơi thế gian con người. Một người, sau khi trải qua hết thảy mọi việc nơi thế gian, mới có thể giữ được chân tâm, dù chưa đến Tây Thiên thì trong lòng sớm đã thành Phật rồi.

Nội hàm của Tây Du Ký vô cùng uyên thâm. Cùng là một người nhưng đọc vào những lúc khác nhau thì thể hội cũng khác nhau. Ví như khi đọc vào thời niên thiếu và khi đọc vào thời trai trẻ đều có những thể hội hoàn toàn khác nhau. Hơn 20 năm sau đọc lại, lại có thể hội mới.

Một bộ thiên thư bác đại tinh thâm như thế, cả đời người dẫu dày công nghiên cứu cũng khó có thể hiểu cho tỏ tường. Vậy nên, có cả trăm ngàn người lần giở Tây Du Ký, thì những người thật sự đọc hiểu lại chẳng có mấy ai…


Theo bannedbook.org
Quang Minh biên dịch
Read More ...

0 nhận xét



Khổ lắm, nói mãi, nhàm tai… nhưng có vẻ như chẳng mấy ai biết rõ cái bí mật này, mà có biết vẫn… dị đoan mới lạ!

Ví dụ ngay ông bạn thân tôi vốn sùng tín, để xây một căn nhà 4 tầng đã chạy đôn đáo lựa thợ, chọn vật liệu, nhờ người giám sát quá trình thi công và đương nhiên không. thể thiếu một thầy địa siêu đẳng cúng vái thổ thần quản lý khu vực, chọn ngày giờ khởi móng, đổ trần xong lại còn hàn cả long mạch và yểm bùa chú bốn phương trừ tà… Tưởng rằng cẩn trọng đến thế không chút sơ sảy nào, nhưng nhà chưa hoàn thành thì bố mát, năm tiếp theo phải vướng kiện tụng liên miên, năm tiếp nữa con thi trượt Đại học, rồi đến sức khỏe bệnh tật mọc ra ầm ầm chẳng biết kêu ai vì đã xem phong thủy địa lý kỹ lắm rồi kia mà? Bà chị tôi cải tạo, lên tầng hai lợp tôn mỗi căn nhà cấp 4 cơ quan chia cho, cũng tất tả ngược xuôi từ Diễn sang Hà Đông nhờ thầy kén ngày giờ tốt, xem tuổi cả mẹ lẫn con, vậy mà mái chưa lợp xong đã thấy đơn hàng xóm gửi đến tận cơ quan khiếu nại chỉ vì lấn chiếm khoảng không tập thể! Cô bạn tôi thì khác, mua được mảnh đất ở Định Công bèn tức tốc xây ngay, khốn nỗi xem nhiều thầy quá mỗi người nói một phách, không biết tin theo ai, bèn chọn bừa một ngày dương và ngày âm có tống số đẹp nhất đào móng, xây ào ào thế mà mọi việc cũng ổn cả, chẳng làm sao? Chuyện cậu tôi lại càng vô thưởng vô phạt khánh thành ngôi biệt thự kiểu Pháp tại khu xóm Chùa xong, chỉ được hưởng thụ mỗi hai tuần đã phải ngậm ngùi khăn gói quay lại căn hộ lắp ghép cũ, vì có ông Tây thuê dài hạn nhà mới mất rồi, chẳng kịp biết ở tốt hay xấu nữa. Hình như đã thành thông lệ, hễ cứ chọn đất xây nhà xong tốt đẹp thì không sao, còn gặp biến cố trục trặc, mất mát thua thiệt gì là người ta đổ riệt tại phong thủy rồi ân hận vì không nhờ thầy địa lý giúp đến nơi đến chốn hoặc hậu đãi thầy chưa cẩn thận…

Kể qua vài câu chuyện mới thấy địa lý phong thủy vốn là một vấn đề tạo nên tâm lý và tác động rất lớn đến đời sống của con người từ xưa tới nay.

Nội dung gốc gác của phong thủy là một loại tri thức người ta dùng để lựa chọn và xử lý hoàn cảnh ăn ở của phần dương trạch (nhà ở cung điện, chùa chiền, bếp…) và phần âm trạch (lăng, mộ, huyệt táng…) nhằm mục đích thỏa mãn tâm lý và sinh lý của con người tránh cái xấu, lấy cái lành. Nếu nhìn trên khía cạnh khoa học, thì phong thủy chính là quan hệ tự nhiên vốn có giữa từ trường trái đất, địa tầng và sức khỏe sinh lý con người. Từ xưa phong thủy có hai trường phái Hình (dựa vào thế đất) và Khí (dùng âm dương bát quái suy ra lành dữ) cho nên hạt nhân cơ bản của phong thủy là nguồn sinh khí một khái niệm vô cùng rối rắm phức tạp bao gồm những quy định về long mạch, huyệt vị, dòng chảy, phương hướng… vì vậy phong thủy là quan niệm duy lý lưu truyền hàng ngàn năm, ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống hiện tại, trở thành một tín ngưỡng vô hình và là tục lệ ám ảnh xã hội mà không sao giải thích rõ ràng được. Cũng cần nói thêm, không chỉ ở riêng nước ta, các dân tộc trên bán đảo Ban Căng cũng từng đề cao yếu tố gió – nước tác động đến con người qua những nghiên cứu của Hipocrát Olimpia, Acrantit… rồi người Ai Cập cổ đại đã xây Kim tự tháp bằng đá theo hướng từ trường để nạp điện, hấp thụ các tia vũ trụ bảo quản xác ướp và hầu hết các nước Đông Á khác đều thịnh hành thuật phong thủy nhu Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Myanmar…

Thông qua rất nhiều điều nghiên xã hội sâu rộng, người ta có thể xác định được nguyên nhân phát sinh quan niệm phong thủy chính là vì con người nhận thấy sự nhỏ bé bất lực của mình trước thiên nhiên bao la bí ẩn, trở nên sùng bái thiên nhiên, tìm mọi cách để tương thích. hòa thuần cùng môi trường sống. Bởi vậy, người ta tôn sùng Trời (nơi quy định số phận sống chết sướng khổ của con người), Đất (nơi người ta phải sống phụ thuộc cả cuộc đời no đói lành dữ), Núi (nơi được coi là chỗ trú ngu của thần thánh). Gió (được coi là sự biểu hiện tính khí hơi thở của Trời), Nước (là nguồn gốc thủy tổ của mọi sinh vật có thể đem lại hạnh phúc hay tai họa khôn lường), Rồng (là linh vật giỏi biến hóa có thể tạo ra mây mưa, quản lý nước gồm chín loại rồng: quay đầu rồng biển, rồng sa, rồng động, rồng bay, rồng nằm, rồng ẩn, rồng lên mây, rồng tự bầy) và nơi tập trung khi mạch tốt nhất của đất được gọi là long huyệt), cuối cùng con người ta tôn thờ linh hồn của người đã chết, coi linh hồn bất diệt và chi phối đến người sống cho nên phải chọn đất lành cho người chết ngụ cư và phù hộ người sống.

Vậy xét cho cùng, bản chất của phong thủy là gì? Đó chính là khái niệm xoay quanh gió và nước. Về khí, các triết gia cổ đại cho rằng khí tồn tại ở mọi nơi, cấu tạo nên vạn vật và khí không ngừng vận động biên hóa quyết định đến họa phúc của con người cho nên khí là gốc của vạn vật có đất là có khí người ta sinh ra từ khí và trở về khí, người sống do khí ngưng tụ lại, người chết phải cần nơi tụ khí vì thế rất nên coi trọng phần mộ tốt để nuôi khí, sinh khí.

Gió cũng được chia làm 8 loại (bát phong), mỗi loại gió cách nhau chừng hai, ba tháng: gió đông bắc nóng, gió đông ào ào, gió đông nam hun đốt, gió nam rất to gió tây nam rét buốt, gió tây heo may, gió tây bắc rất độc, gió bắc lạnh lẽo. Thông qua cách xem gió (phong giác), từng loại gió gắn với hậu quả: nghèo túng, khốn khổ, tan vỡ, tuyệt diệt chết yểu, không con…

Về nước, quan trọng nhất là nguồn mạch, còn gọi là thảy khẩu, nơi nước đổ vào, chảy ra. Nơi nước chảy đi là địa hộ (cửa đất) bởi thế nước sinh ra của cải, bảo tồn đời sống. Cần phải phân biệt được hai loại nước lành (nguồn nước phải vươn xa, quanh co uốn khúc, quay vòng lại. chứa mạch ngầm) và nước xấu (réo ào ào xông tới ầm ầm hoặc có mùi thối). Có tám thần nước (chia ra làm nhiệm vụ theo các dòng sông, biển lớn): thần Lạc thủy là Mật Phi, thần Trường giang là Giang Phi, thần Tương giang là Tương Quân, thần Đống hải là Ngụ Hổ, thần Nam hải là Hồ Dư, thần Tây hải là Yêm Từ, thần Bắc hải là Huyền Minh và thần cai quản các hồ, suối, ao, giếng… nhìn chung là rất phức tạp phiền toái..

Rõ ràng là quan điểm gió – nước của người xưa nặng về mê tín dị đoan, xây dựng theo trí tưởng tượng để tự an ủi về những hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt và tai hại mà tri thức thời ấy không thể giải thích nổi.

Giờ đây, nếu nhìn nhận và phân tích thuật phong thủy theo quan điểm khoa học hiện đại, thì đúng là trên mặt đất có những vùng từ trường và địa trường phân bố hoàn toàn khác nhau. Mới đây nhất là cách giải thích những tác động, ảnh hưởng của tia đất ở những khu vực đang được quy hoạch, thi công xây dựng và một vài điểm nóng về tai nạn giao thông ví dụ như Pháp Vân – Cầu Giẽ như một số phóng sự báo chí đã đưa tin. Trên cơ sở nhận thức duy vật biện chứng, con người ta hoàn toàn có thế làm chủ phương pháp áp dụng phong thủy vào việc chọn đất, xây nhà ở.

Ngày trước, theo đúng nghiêm luật ra, một công trình kiến trúc hoàn thiện phải hài hòa với thiên nhiên để “nhận khí thiêng của sông núi, tinh hoa của nhật nguyệt”, nhằm rèn luyện tinh thần, ý chí, tình cảm dưỡng khí của đất trời và bồi bổ tố chất cho cơ thể (vì lý do hồi ấy chưa điều chế được các loại vitamin tổng hợp)… tất nhiên phải tuân thủ vô số các điều kiện phiền nhiễu như chuẩn bị văn khấn, đồng hồ mặt trời, la bàn, thước đo và phải thuộc lòng ngũ hành, tam hợp, tứ cục, sinh khắc… để chọn cho được long mạch – vấn đề quyết định sự thành bại của thuật tướng địa. Nhưng cuối cùng, sự tài giỏi chính xác của thầy vẫn lại phụ thuộc vào ngộ tính thiên bẩm và các loại bùa chú treo, dán, chôn, yểm… tóm lại xem được chỗ đất làm nhà rất phức tạp, vã mồ hôi trôi tiền của, vô phúc gặp phải thầy địa rởm, dốt thì tai họa càng nặng nề. Tuy nhiên, một số điều kiêng kỵ của phong thủy xem ra cũng khoa học như: Nhà ở không được làm ở cửa ngõ ra vào trên sườn núi hoặc thung lũng tránh lũ quét và sét đánh. Nhà ở không được làm trên giếng cũ vì đất dễ lún gây đổ nhà hoặc rỉ nước mạch mang khí chất độc hay ẩm ướt dễ bị phong thấp. Nhà ở tránh con đường đâm thẳng vào mặt tiền để tránh các phương tiện tốc độ cao hoặc đêm tối lao vào gây tai nạn. Nhà ở không làm nơi ngõ cụt vì ra vào không thuận tiện, hỏa hoạn khó thoát thân. Nhà ở cạnh đền miếu xét về tâm lý cũng không ổn vì vắng vẻ quá tạo hình ảnh cô liêu xa cách cộng đồng, đông đúc quá thì không lúc nào được yên tĩnh…

Cây cối quanh nhà cũng có ảnh hưởng nhất định ví dụ cây to tuy cho bóng mát nhưng mùa mưa sẽ dẫn sét, điện vào nhà và rễ cây sẽ làm móng nhà yếu đi. Trong kết cấu nhà ở cái cửa có vai trò rất quan trọng vì nó là bộ mặt, yết hầu, khẩu khí (đường dẫn khí) của toàn thể kiến trúc. Về yếu tố Thủy tất nhiên nơi ở phải có nguồn nước trong sạch và dồi dào để phục vụ các nhu cầu đời sống khác như chăn nuôi, trồng trọt tưới tiêu. Về yếu tố Phong, nếu nhà chật hẹp, không khí lưu thông kém sẽ sinh ra ẩm thấp, bệnh tật vì sâu bọ, vi trùng, nhưng nếu gió lồng lộng suốt ngày tứ phía thì dễ cảm mạo, phong hàn, tai biến não. Người đang sống đã vậy, người đã chết cũng phải tham khảo một số địa thế đất xấu không được mai táng như nơi có đá tảng lổn nhổn, nước xiết đầu ghềnh, nơi đất cụt vô cảm, núi trọc cô đơn, miếu chùa hoang, vùng đất tù đọng núi đồi tản mạn, phong thủy buồn thảm, đất bẩn hẹp và nước ứ tù hãm… chưa biết lợi hại thế nào nhưng trước hết để tạo thuận tiện cho người thân thăm viếng mộ, tỏ lòng thành kính, tình cảm tốt đẹp với tiền nhân đã khuất điều này không có gì sai trái và đã thành phong tục của các dân tộc phương Đông từ bao đời nay.

Dẫu sao, đã là một tồn tại xã hội thì vẫn có những đặc trưng lạc hậu nhất định, càng ngày phong thủy càng không phù hợp với đời sống công nghiệp và trở thành công cụ trong tay những thầy địa lý ỡm ờ chuyên đi lừa bịp thiên hạ kiếm tiền. Nào là xoay tại vị trí xalông, giường ngủ cho hợp chủ mệnh giá 1 triệu, chặt bỏ những tác động ám địa, hãm chủ như cành cây chĩa vào nhà giá 2 triệu, chỉnh lại hướng bàn thờ để phát tài giá 3 triệu, đặt mộ đúng hướng, chọn đất tốt để phát số thì giá 5 triệu và hơn nữa… Nhưng tại sao các gia chủ và cả các thầy địa không tự đặt ra một câu hỏi đơn giản rồi tự tìm giải đáp xem: Tại sao các thầy siêu giỏi thế mà không tự đặt, chỉnh, sửa cho mình trở thành tỷ phú, vương giả để khỏi hành nghề này, kiếm tiền vất vả lại còn mang tiếng? Thực tế phát triển khách quan còn đang đẩy nhanh thuật phong thủy địa lý vào chân tường ví như chuyện xây nhà ở cho hàng ngàn hộ dân trong một chung cư cao mấy chục tầng thì đương nhiên vấn đề khảo sát địa tầng, chống lún tránh động đất, phòng cháy vô cùng quan trọng và các kỹ sư thiết kế trên máy đồ họa ba chiều cùng các nhà thăm đò địa tầng có thể giải quyết ổn thỏa mà không cần nhờ đến thầy nào cả. Ngoài ra, các nghĩa trang đều có quy hoạch hàng lối, đài hóa thân trở nên phổ biến và vệ sinh môi trường hơn, vì vậy thủ tục chọn hướng mộ tốt xấu, thế đất phát vượng… trở thành khái niệm phù phiếm của những ai lắm tiền, nhiều đất vì phú quý sinh lễ nghĩa mà thôi.

Khái quát lại thuật phong thủy là một hiện tượng văn hóa xã hội tồn tại khá dai dẳng, nếu phân tích kỹ gạt bỏ những thủ pháp, nghi lễ, hình thức mê tín bảo thủ câu nệ thì vẫn còn những kinh nghiệm dân gian đáng học hỏi phục vụ cho việc xây dựng nhà ở thuần túy. Tuy nhiên, với trình độ của khoa học kỹ thuật hiện đại thì thuật phong thủy cũng đáng xếp vào kho lưu trữ để ghi nhớ công sức tìm tòi sáng tạo của các bậc tiền nhân suốt quãng dài lịch sử nhằm phục vụ cuộc sống tốt đẹp yên lành hơn cho con người. Và tất nhiên, phong thủy không phải và không thể là một bộ môn bí hiểm thần kỳ, càng không phải là loại tri thức cao siêu chỉ được chân truyền riêng cho các thầy địa lý như họ đã và đang khuếch khoác bịp bợm để kiếm sống, đó chỉ đơn giản là phương cách để chúng ta tự quyết định lựa chọn ngôi nhà ấm cúng của mình an toàn hơn, tốt hơn và hạnh phúc hơn.

* * * 

Bất cứ một nền văn hóa nào cũng tìm được chỗ đứng thích hợp trong quá trình phát triển của xã hội. Những tri thức cổ do người xưa để lại không chỉ bắt nguồn và tồn tại ở trong phạm vi vùng miền, khu vực mà còn tạo ảnh hưởng nhất định, lan truyền tương tác, du nhập mở rộng đến phạm vi châu lục. Phương Đông chúng ta giáp với một số nước nằm trên ngưỡng cửa lục địa Á – Âu nên cũng có đôi nét tương đồng về quan niệm phong thủy. Ví dụ Hy Lạp cổ đại có cuốn sách Bàn về gió, nước và hoàn cảnh cuốn sách này đưa ra một số quy định về quan hệ, tác động lẫn nhau giữa con người, xã hội và hoàn cảnh sống như: bệnh tật của cư dân thành thị thường liên quan tới vị trí nhà ở và hướng gió, nguồn nước và chất lượng nước quyết định tới sức khỏe con người, cư dân ở vùng nóng bức ẩm thấp sẽ sinh lười nhác không thích những hoạt động mạnh mẽ, cư dân ở vùng mưa nhiều khí hậu biến đổi thì cần cù, dũng cảm, nóng nảy, cư dân vùng khô cằn hình thể gày yếu, tính tình cố chấp. Một cuốn sách nữa thời Hy Lạp cổ có tên là Hồng Hải lại trình bày và phân tích mối quan hệ giữa con người và các dòng sông, nhưng tất cả các cuốn sách này đều có chung một đặc điểm là hoàn toàn không mang màu sắc mê tín, chỉ thuần chất khoa học. Cũng như vậy, người Ai Cập cổ đại cũng nghiên cứu một loạt những kỹ thuật đặc biệt khi xây dựng Kim tự tháp: tất cả các tháp đều nằm theo hướng từ trường Bắc – Nam của trái đất, tháp xây bằng đá hoa cương, có tính năng nạp điện, hấp thụ và bảo tồn tia vũ trụ, vỏ ngoài tháp xây bằng đá vôi có khả năng ngăn sự khuếch tán các tia năng lượng từ trong lòng tháp vì vậy nó bảo tồn các xác ướp được lâu dài. Những thí nghiệm hiện đại cho thấy: hoa quả để trong Kim tự tháp sau nửa tháng vẫn tươi nguyên, những người bị bệnh ngoài da hay thần kinh suy nhược đều điều trị rất hiệu quả trong tháp. Còn ở Châu Á, các nhà khoa học cho rằng các nước gần nhau về địa lý nên chịu ảnh hưởng và tiếp thu thuật phong thủy của nhau gồm có nhóm nước Trung Quốc, Nhật Bản, Việt Nam, Triều Tiên. Tại Nhật, sau thời đại cải cách đã có cuốn Tác đình ký, đây là cuốn sách chỉ dẫn con người ta cách điều chỉnh dòng nước chảy sao cho mang lợi cho cư dân sống quanh đó nhất, đồng thời cũng giới thiệu cách trồng cây và loại cây giúp tránh bệnh tật ốm đau. Ngoài ra cũng có cuốn Cổ sự ký nói về cách bày biện, bố trí nội thất trong nhà và giữ thần trông bếp. Tại Trung Quốc, thuật phong thủy thịnh hành lâu đời nhất và có ảnh hưởng quyết định đến những trường phái địa lý, phong thuỷ khác ở các nước láng giềng, trong đó có nước ta, thông qua những bộ sách kinh điển đồ sộ như: Thất lược, Văn hiến thông khảo, Sùng văn tổng mục, Bạn thư ngẫu ký, Tứ khố toàn thư tổng mục, Bát trạch… Có thể nói, phong thủy liên quan chặt chẽ đến Nho giáo. Các sách phong thủy đều dẫn luận điểm của các bậc tổ sư đạo Nho như Khổng Tử, Chu Hy, Trình Di và đưa ra nguyên lý tam tài: Thiên – Địa – Nhân trong đó Địa là quan trọng nhất vì như cuốn Phong thủy khuyết danh viết: Trong ba đạo thì đạo đất là quan trọng hơn cả. Những gì đẹp đẽ ở trời đều do bởi đất. Phàm những gì phụ thuộc vào trời đều có gốc rễ ở đất. Thuật phong thủy Trung Hoa còn coi trọng Tam cương (khí mạch, minh đường, thủy khẩu) và Ngũ thường (long, huyệt, sa, thủy, hưởng): Đặc biệt là phong thủy rất tôn trọng trật tự đẳng cấp giống như ở triều đình phong kiến.

Phong thủy chỉ phát huy được tác đụng nhờ vào thầy phong thủy. Đặc trưng của các thầy phong thủy chính là những người không may mắn trên khoa trường vì gần như tất cả những thầy địa đều là những kẻ thi trượt, thất chí lấy phong thủy làm nghề nghiệp kiếm sống và quảng bá tài năng của bản thân trên một khía cạnh khác của kiến thức. Nước ta cũng chịu ảnh hưởng Nho giáo từ ngàn năm trước, nên những lý thuyết về địa lý phong thủy chủ yếu do du nhập vào rồi phát triển thêm dựa trên thuật phong thủy Trung Hoa, điều này rất dễ nhận thấy qua chuyện dã sử về thầy địa lý Cao Biền. Dân ta cũng được biết đến những nhân vật tinh thông địa lý thuần Việt nhất là Tả Ao, người gốc Hà Tĩnh, mà những kiến thức của ông đã được tập hợp thành bộ sách cùng tên rất nổi tiếng trong dân gian. Vậy rút cuộc phong thủy là tôn giáo hay mê tín? Hãy xét những đặc điểm chính của phong thủy rồi ta có thể đưa ra kết luận. Đó là:

Tính chất phổ biến rộng rãi. Kể từ hơn 2500 năm trước cho đến thế kỷ XXI phong thủy không những vẫn tồn tại cùng xã hội mà còn lan rộng tới mọi vùng miền và các tầng lớp xã hội, thậm chí nó còn hòa trộn vào tập tục địa phương một số nơi để hóa thân thành phong tục văn hóa cổ truyền.

Tính chất thần bí, nửa công khai: Không chỉ vì lý thuyết rối rắm phức tạp, mờ ảo của nó mà các thầy địa lý còn thêu dệt nhiều tích ly kỳ, lồng vào các nhân vật lịch sử hoặc dã sử rồi ra sức thổi phồng lên thành truyền thuyết về linh thiêng liêng, định mệnh của thuật phong thủy.

Tính chất vòng vo, rắc rối: Người ta vẫn đồn câu: ba năm tướng địa, mười năm điểm huyệt, như thế phải mất 13 năm mới xác định được nơi đất phát, còn tiếp theo có phát không phải đợi số! Hơn nữa, lý luận phong thủy không có hệ thống chặt chẽ và không thống nhất nữa các trường phái, tiêu chuẩn chính xác là do mồm các thầy phán xét.

Tính chất lừa bịp: Đã là thầy địa thì phải tán tụng phong thủy lên mây xanh mới có cửa kiếm ăn. Nhưng nếu tính ý ra thì hiểu ngay chẳng qua là thủ đoạn bán mộc – bán giáo của các thầy thôi: mộc tết không gì đâm thủng và giáo sắc đâm đâu cũng thủng, vậy mộc ấy bị giáo ấy đâm thì sao? Can cớ gì thầy không tự cứu lấy mình trước?

Tính chất bảo thủ giả hiệu: Các thầy địa thường khắng định mình nắm giữ những kiến thức, kinh nghiệm bí truyền, gia truyền không thể tiết lộ cho ai, chỉ mình hành sự để giữ thiên cơ! (thực ra thầy sợ nói ra mất bản quyền kiếm ăn). Nhưng sau lại thu nạp đệ tử để truyền lại mong sao có người nối nghiệp rồi tôn vinh tên tuổi mình?

Tính chất thực dụng: Thầy phong thủy tự đánh giá mình khi hành nghề cũng giống như thầy giáo hay thầy lang đều bán kiến thức để kiếm sống. Nhưng xét về bản chất thì không hề giống nhau bởi không gì có thể so sánh với tri thức và tính mạng con người, trong khi đó thầy phong thủy chỉ cốt sao cho thỏa mãn cái muốn của gia chủ về tài lộc, địa vị, tương lai nhằm kiếm khoản hậu tạ. Các thầy địa trong xã hội bây giờ hầu hết căn cứ vào tiền thù lao để định tướng địa, tiền càng nhiều thì xem càng kỹ, còn kết quả cụ thể thì đương nhiên phải đợi số rồi!

 * * *

Từ xưa đến giờ, nhiều thầy phong thủy luôn tự vỗ ngực rằng chỉ giúp dân cầu phúc, nhưng khi vào cuộc rồi vẫn căn cứ vào nhu cầu ý muốn của gia chủ để tính giá cao thấp. Nói đúng ra thì họ coi đó là một nghề kiếm cơm, làm giàu bằng phương pháp thôi miên hóa những khổ chủ cả tin, ít hiểu biết thông qua những kiến thức cổ mù mờ, khẩu ngữ bí ẩn, dụng cụ thô sơ nội dung nhuốm màu hoang đường. Thuật phong thủy tuân theo một số nguyên tắc chính yếu cùng những nhu cầu kiên thức không giản đơn chút nào. Một số người cho rằng chỉ cần quen biết vài thầy phong thủy chuyện trò dăm cuộc, ghi chép đôi điều cốt lõi coi như đã hiểu về tướng địa! Nhưng đó chỉ là những thầy thấp tay, lòe bịp kiểu chợ búa thôi chứ muốn khẳng định mình là thấy địa trứ danh, có mác hiệu xịn cần phải đọc nhiều loại sách, kể cả sách quý hiếm, tư liệu, lịch sử, truyền thuyết kinh điển. Như cuốn cẩm nang Phong thủy giảng nghĩa giới thiệu: Bước đầu học địa lý, phải phân biệt âm dương, tam hợp, song sơn, ngũ hành, sinh vượng, tứ tuyệt rồi sau đến bát quái, long mạch, núi, địa hình… rồi tất cả những điều ấy đem ra thực hành cho cả người sống và người chết. Sau khi nhập môn xong, các thầy địa thực tập lại phải hiểu được những khái niệm thông thường nhất của nghề như Khí (một loại vật chất trìu tượng phát sinh từ tinh thần, tồn tại ở mọi nơi và không ngừng vận động biến hóa mà thuật phong thủy coi đó là yếu tố gốc của vạn vật), Tứ tượng (gồm Thái dương, Thái âm, Thiếu dương. Thiếu âm vận dụng vào địa hình xem tốt xấu, lành dữ), Bát quái (sinh ra từ thuyết âm dương, quy định ứng vào các vùng đất khác nhau để xác định phương vị), Hình thế đất (chủ yếu dùng để quan sát núi gồm có 5 thế rồng của 5 hướng, rồi lại căn cứ vào hình đáng, tư thế chia thành 9 rồng như rồng quay đầu, rồng bay, rồng nằm…).

Các thầy địa từ xưa khi hành nghề có rất nhiều dụng cụ đầu tiên phải nói đến la bàn, trên đó có đủ các thông tin cần thiết để phán. Tiếp theo là những biện pháp cứu vãn những điểm hung họa sắp hoặc đang xảy ra để biến hung thành cát như: Dùng mai thạch trân trạch thần – dùng gương soi trấn sơn binh. Các thầy còn sử dụng bùa chú yểm, vẽ lên cây, đeo vào người, treo trước nhà hoặc chôn xuống đất gọi là bùa Ngũ nhạc, bùa trấn tứ phương, bùa tam giáo cứu trạch… những bùa này vẽ bằng màu son lên miếng gỗ có kích thước quy định và treo theo ngày giờ. Các thầy cũng viết chữ lên tảng đá hoặc chôn yểm hình nhân, súc vật bằng gỗ, đất hay chiếu gương soi để trấn hưng (giờ đây nhiều nhà thành thị cũng đua nhau treo miếng gương bát giác lên cửa ra vào để trừ tà)! Thật ra tất cả những vật dụng này chỉ mang tính an ủi tâm lý chứ không thể ngăn chặn được điều gì. Ví như chỉ một chữ thiện hoặc phúc viết lên miếng gỗ mà có thể trừ được tà ma, đuổi bệnh tật, mang lại phúc lành thì tại sao mỗi chúng ta và cả thầy phong thủy nữa cứ đeo dăm bảy cái bùa trong người hoặc treo yểm từ trong buồng, giữa nhà ra vườn để mãi mãi được yên ổn giống như tiêm vac-xin phòng bệnh vậy? Nếu như hiểu rằng càng đeo nhiều bùa chú càng tết thì tội gì không đeo thay đồng hồ, dây chuyền, nhét vào ví để tiền lúc nào cũng vào như nước, mọi bệnh tật kể cả cúm gà, HIV, ung thư đều phải chào thua? Liệu có thầy địa nào dám chắc là dùng bùa chú đảm bảo không bị đạo chích đào tường phá két sắt không bị chập điện, hỏa hoạn và thậm chí động đất thì nhà chúng ta vẫn trơ trơ cùng tuế nguyệt? Và nếu thế những thầy phong thủy phải chung sức mở hắn nhiều tổ hợp sản xuất bùa cho toàn dân thì mới đủ đáp ứng nhu cầu! Có lẽ tập đoàn những thầy địa cũng đang có ý định ấy chăng?

Ngoài bùa chú ra, các thầy phong thủy dùng một số đồ nghề khác nữa như Thổ khuê (gậy căn cứ vào bóng nắng xác định phương hướng), Thổ quy (dụng cụ đo bóng nắng để phân định bốn mùa), những dụng cụ này ít nhiều mang tính khoa học ứng dụng. Bên cạnh đó, còn có Kim chỉ nam (một dụng cụ giống như cái môi múc canh xoay tròn tự do trên mặt bàn tròn, cán môi chỉ hướng nam trên mặt bàn khắc thiên chi, bàn đồng tâm chồng lên nhau: bàn tròn gọi là thiên bàn tượng trưng cho trời, bàn vuông gọi là địa bàn tượng trưng cho đất. Giữa thiên bàn vẽ chùm sao Bắc Đẩu, ngoài cùng có 28 sao và 12 chữ số. Địa bàn có ba tầng vẽ thập can và thập nhị chi cùng 28 sao). Khi hành sự trên thực địa, các thầy còn dùng cả thước đo đó là một dụng cụ bằng kim loại dài khoảng 1m, chỗ tay cầm giống như hai tai kéo khi gập lại còn khi mở ra sẽ xoay thành góc 90 độ, thực chất đó cũng là thanh sắt từ hoạt động theo nguyên tắc kim chỉ nam.

Mỗi thầy phong thủy đều có một bí quyết riêng không ai giống ai để khẳng định mình giỏi hơn hết thảy, chính vì vậy trên cùng một dụng cụ nhưng các thầy có thể phán hoàn toàn khác nhau và ai cũng cho là mình đúng còn các thầy khác sai tuốt! Nhưng dù sai hay đúng cũng không thể còn đất dụng võ nữa. Lấy ví dụ như cách tìm long mạch chẳng hạn. Long mạch trong thuật phong thủy vốn là một phạm trù hết sức phức tạp về lý thuyết và càng mông lung trên thực tế. Muốn tìm được long mạch phải xác đính được vị trí núi tổ. vì tổ sơn là căn nguyên của cát hung. Tìm được tổ sơn rồi lại phải phân định long mạch xấu hay tốt. Phân tích xong cuối cùng phải tính đếm xem có dùng được không bởi có những long mạch dài xa trên ngàn dặm, loại tương đối cũng vài ba dặm! Ngày xưa chuyện đơn giản vì đất quê ta mênh mông. dân cư thưa thớt chọn chỗ nào cũng ổn, nhưng bây giờ thì khác, nếu long mạch ở giữa đường cao tốc hay trong khu công nghiệp hoặc trúng vào khu vườn cây xuất khấu thì đố thầy địa nào dám cuốc đất lên mà yểm long mạch? Hơn nữa, cách xem cát địa còn phải phụ thuộc vào ngộ tính trời cho từng thầy, tức là mắt phải thấu thị xuyên qua mấy mét đất thì mới chọn đúng chỗ, mà muốn có đôi mắt thần kỳ ấy ngoài khả năng thiên bẩm ra thì không hiểu phải mất bao lâu thầy địa mới luyện được tuyệt chiêu ấy? Thời buổi bây giờ thị lực ai cũng suy giảm vì thiết bị điện tử, chắc là các thầy phong thủy dù muốn cũng không thể trông chờ vào những dược phẩm thông thường như Tobicom hay Rhoto để có ngộ tính cao siêu được!

* * * 

Tất cả sách vở, kiến thức phương pháp, bí quyết về phong thủy của các thầy địa tóm lại chỉ nhằm đến một mục đích cuối cùng là chọn đất, nhà ở cho người sống (dương trạch) và chọn đất mộ huyệt cho người chết (âm trạch). Nhưng cơ sở của việc chọn lựa này có thể tin được không?

Trước hết, thuật phong thủy cho rằng có hai loại khí ảnh hưởng đến nhà ở là nạp khí và sắc khí Nạp khí là những loại khí dẫn đến nhà ở từ các phương hướng khác nhau. Sắc khí là loại khí tự bốc lên mang tính lành dữ từ nhà đất ở cả hai loại khí này đều được xác định trên cơ sở vô hình và không rõ ràng vì chẳng ai nhìn thấy, mọi tốt xấu đều do ý thầy địa phán quyết. Các thầy còn nói rằng trên nóc nhà thường có khí nhiều màu sắc với ý nghĩa khác nhau, nào là: tía phát tài, trắng mất của, đen phạm pháp, xanh cờ bạc. Dù thế đi nữa mà bây giờ mời thầy địa cao tay nhất đến xem trên nóc nhà chung cư 23 tầng có khí màu gì và ý nghĩa với ai thì chắc hẳn các thầy phải treo ấn chào thua!

Từ xưa đến nay trong lĩnh vực xây dựng, tất cả mọi người đều mong muốn tìm được miếng đất đẹp đẽ vừa đảm bảo kiến trúc bền vững vừa có thể sống tốt. Về nguyên tắc chung thì các triết gia cổ đều chung ý kiến là nhà ở phải hòa hợp với thiên nhiên, kề núi sông, đất đai màu mỡ và móng nhà không lún. Những điều này đều thực tế’ có lý và thuật phong thủy cũng nêu ra những kiêng kị về khí, mạch của tướng địa như: không làm nhà trên sườn núi hoặc dưới thung lũng (tránh lũ quét hoặc sét đánh), nhà không được làm trên giếng cũ (để phòng ẩm thấp và khí độc), nhà không làm ở ngã ba đường (có thể nguy hiểm vì phương tiện giao thông)… Thuật phong thủy cũng có một số nhận định về cây trồng có lợi cho sức khỏe và sản xuất của cư dân nhưng lại kèm theo một loạt điểm báo vô căn cứ: cây cối bao quanh nhà thanh nhàn hạnh phúc, cây thùy dương trước cửa chết treo xà nhà, độc thụ chặn cổng mẹ góa con côi. trúc mộc quấn quýt đủ ăn nhiều lộc, cây hòe trước cửa vinh hoa phú quý… Nguồn nước quanh nhà cũng chia làm 6 loại cát hung và đều có ảnh hưởng đến gia chủ như: nước chảy uốn khúc đẹp gia cảnh phát đạt, nước hướng thẳng vào nhà mất người, ao to trước cửa không thọ, ao to sau nhà chết yểu… những điếu này không thể giải thích được nhưng thực tế thì lạc hậu vì thời nay ao cũng đang biến mất dần, đến cống rãnh cũng bị lấp đi xây nhà cho thuê thì ảnh hưởng của nước chỉ phụ thuộc vào mỗi nhà máy nước sạch và cùng lắm là thùng lọc gia đình mà thôi.

Về vấn đề nhà ở thì người xưa xây nhà rất hoành tráng (nếu so sánh với hiện nay): sân có tường rào, trong cổng có đình, tiếp đến sảnh lớn, bên trái là hiên, sau là buồng ngủ, bên phải là nhà học. Phòng ở còn chia làm 5 hình dáng theo tính chất ngũ hành, rồi kích thước nhà ở có quy định để tránh điềm dữ… những điều này cũng không ai lý giải được tại sao, có lẽ chỉ dựa vào kinh nghiệm phỏng đoán. Còn thời buổi bây giờ đất ở nông thôn cũng không nhiều để xây nhà thoải mái như vậy vì người đẻ đất không đẻ, thậm chí tại thành phố nơi tấc đất tấc vàng, sân chung tập thể cũng bị lấn chiếm làm của riêng thì ai dại gì bỏ phí từng cm2? phong thủy cũng cho rằng nhà ở tết nhất hình vuông, tường bao tết nhất hình tròn và cửa rất được coi trọng vì nó là khí khẩu (đường dẫn khí ra vào), cửa nên mở theo hướng dân gian ca tụng là Nam hoặc Đông – Nam thì rất thoáng mát nhưng dân mình còn sáng tạo cả nhà hình ống, nhà mỏng dính, nhà hình thang có cần gì đến phong thủy đâu? Nội thất trong nhà và các đồ dùng như giường, bếp, tủ đều phải đặt hướng tốt nhất nói vậy những gia đình ngũ đại đồng đường đến chỗ ngủ trên sàn còn thiếu nói gì đến xoay thường chọn hướng! Chỉ những nhà riêng 5 – 6 tầng diện tích mênh mông mới có điều kiện thực hành và bày đặt nội thất theo phong thủy và như vậy phong thủy chỉ có ý nghĩa với người giàu.

Qua phần đương trạch, thử bàn đến âm trạch. Người xưa cho rằng dương sao âm vậy nên nơi an táng tổ tiên ông bà cha mẹ cũng phải đàng hoàng, đẹp đẽ trước hết là chứng minh chữ hiếu, sau rồi ước muốn các cụ phù hộ cho hậu bối ăn nên làm ra, công thành danh toại. Chính vì tính thiêng liêng và tác dụng dài lâu này nên thuật phong thủy coi trọng âm trạch hơn đương trạch. Quan niệm chôn cất cũng là biểu hiện của nghi lễ nên mộ còn nhiều tên gọi khác nhau và thường do các pháp sư hay táng sư chủ trì nghi lễ. Gọi là phần mộ vì nó liên quan cả đến địa điểm chôn cất nữa. Phần mộ nguy nga và chuẩn mực nhất thuộc về các đế vương với những đặc điểm: diện tích rộng, trang trí bằng các hình điêu khắc đá như các động vật thiêng, binh lính hầu. Chỗ xây cất tốn kém nhất là tẩm, đây chính là nơi sinh hoạt của người chết ở ngay trong mộ. Trong khu mộ trồng cả cây, dựng bia đá, khắc tiểu sử công lao của người mất. Cứ như thế theo định chế cao thấp mà các đối tượng thấp hơn sẽ có mộ nhỏ hơn, những đồ tuỳ táng ít và không qúy, cuộc sống dưới âm nếu có cũng bình thường, còn đối với dân thì càng xoàng xĩnh và chỉ có các thầy phong thủy địa phương đứng ra chịu trách nhiệm tìm đất, chọn ngày giờ làm lễ, hướng dẫn gia chủ cách chôn cất sao cho có lợi nhất. Nhưng nếu áp dụng những hủ tục này vào xã hội bây giờ hẳn ta sẽ phát hiện nhiều điểm không ổn.

Thời trước còn chế độ phong kiến nên hình thức gia trưởng thống trị trong tư tưởng từng gia đình, khi đặt hướng mộ chỉ chủ yếu có lợi cho người đứng đầu gia đình hoặc trưởng tộc, chủ đất. Ngày nay mọi quan hệ đều bình đẳng, dân chủ và ai cũng muốn phấn đấu vươn lên trong xã hội, vậy nếu chỉ chọn hướng có lợi cho một người chủ hộ khẩu thì liệu có ích kỷ quá không? Còn muốn đặt hướng tốt cho cả nhà thì có khi phải xoay mộ theo cả 8 hướng mới đáp ứng cho tất cả mọi người được!

Điều kiện sống và thực lực vốn có của gia chủ sẽ quyết định việc đặt mộ theo hướng. Ví như ở nông thôn còn nghĩa địa làng hoặc nhà nào có đất riêng thì có thể đặt mộ theo hướng mình thích được (thậm chí các cụ còn cẩn thận lo trước cho mình cỗ áo gỗ tốt và xây trước sinh phần theo tuổi), còn ở những nghĩa trang quy hoạch thống nhất thì sao tự xoay mộ theo hướng vô nguyên tắc được? Hơn nữa, hiện nay phương pháp điện táng đang được đánh giá là văn minh và vệ sinh môi trường thì sau khi áp dụng phương thức này cần gì đến hướng đặt bình tro, chỉ cần một chỗ trên chùa là đủ.


Ngày xưa lạc hậu, sự sống chết do tự nhiên (vẫn gọi là số phận), còn ngày nay người ta chọn giờ mổ đẻ ra con quý tử và thậm chí chọn ngày giờ đẹp để rút ống thở ra cho cụ quy tiên! Vậy còn đâu là tính tự nhiên nữa, hoàn toàn do ý muốn chủ quan của con người chi phối kết quả. Nếu thế, tại sao ta không chọn giải pháp tôn trọng ý muốn của mình hơn là tung hô trí tưởng tượng của thầy phong thủy để đỡ phải tốn tiền oan?


Đỗ Hoàng Giang
Read More ...

0 nhận xét

Mới đây, trong bài phỏng vấn với hãng tin Investment News, tỷ phú giàu thứ 2 thế giới đã được phóng viên hỏi rằng: “Bí quyết giúp ông luôn giữ được đà tăng trưởng kinh doanh xuất sắc mỗi năm là gì?”.

Nhà huyền thoại đầu tư Warren Buffett đã bất ngờ chia sẻ: “Tôi đã nói “không” nhiều hơn bất kì thời điểm nào khác trong sự nghiệp của mình. Trong quá khứ, tôi là người luôn muốn tìm kiếm những thứ hào nhoáng, vì thế, tôi luôn tìm mọi cơ hội để thể hiện bản thân. Tôi sẽ thử 3, 4, 5 ý tưởng hoặc thậm chí là nhiều hơn thế mỗi năm, một số mang lại kết quả khiêm tốn, còn hầu hết là thất bại”.

Giờ đây, khi đã dày dặn kinh nghiệm hơn trên thương trường, ông đã có cách tiếp cận hoàn toàn khác với tất cả mọi việc. Qua nhiều năm, Warren học được rằng, mỗi bước đi của ông đều có thể tạo thành dấu ấn, quan trọng là dấu ấn đó như thế nào.


Warren nói: “Sau một thời gian dài, tôi đã học được cách từ chối những ý tưởng bất chợt hay đam mê nhất thời của mình. Tôi đã không cố bắt bản thân phải nghĩ ra thật nhiều sáng kiến nữa mà tập trung vào một ý tưởng hoàn hảo nhất, dành hết tâm huyết cho nó mà thôi”.

Trong buổi phỏng vấn, một nhà báo cũng hỏi Warren làm thế nào để theo đuổi được những mục tiêu nghề nghiệp của bản thân. Ngay lập tức, tỷ phú đầu tư yêu cầu anh ta liệt kê ra 25 mục tiêu cho bản thân trong vòng 5 năm tới. Sau đó, Warren đã chỉ cho phóng viên kia cách tập trung vào 5 mục tiêu quan trọng nhất. Những mục tiêu còn lại, Warren nói rằng, hãy vượt qua hoặc lãng quên chúng đi.

Cũng theo “nhà tiên tri xứ Omaha”, nếu muốn thành công thực sự, bạn cần học cách kiểm soát và cân bằng những mong muốn của bản thân. Nếu luôn giữ trong đầu quá nhiều ý tưởng, bạn sẽ chẳng thể đủ thời gian để đánh giá, phân tích và phát triển tất cả các vấn đề. Thay vì nghĩ về mỗi thứ 1 ít, hãy tập trung để trau chuốt cho một ý tưởng xuất sắc nhất mà thôi.


Nguồn:
http://www.24h.com.vn/tai-chinh-bat-dong-san/warren-buffett-muon-thanh-cong-dung-tham-lam-qua-nhieu-y-tuong-c161a885258.html
Read More ...

0 nhận xét

Một phần ba thời gian đời người là dùng để ngủ, do đó chất lượng giấc ngủ đối với mỗi chúng ta là vấn đề rất quan trọng. Rất nhiều người có trạng thái thân thể đau nhức chỗ này, đau nhức chỗ kia. Kỳ thực, những vấn đề mà chúng ta thỉnh thoảng vẫn gặp đó, rất có thể là do tư thế nằm ngủ không đúng gây nên. Do vậy, để xử lý tật bệnh này, chúng ta chỉ cần thay đổi tư thế ngủ là tình trạng sẽ được cải biến ngay.

1. Đau vai

Nếu bị đau nhức ở vai, bạn nên chọn ngủ ở tư thế nằm ngửa, đặt một chiếc gối nhỏ lên bụng và ôm, làm vậy sẽ giúp cho bả vai thoải mái hơn. Đối với người không có thói quen nằm ngửa, nếu đau nhức vai thì nên chuyển sang tư thế ngủ nghiêng về phía vai không đau, chân co về gần ngực và gác lên một chiếc gối. Không nên gối đầu lên tay, làm vậy có thể khiến bả vai bị đau nhức.


2. Đau lưng

Nếu nằm ngủ trên đệm quá mềm cũng sẽ dẫn tới đau lưng. Do đó, khi ngủ nên nằm ngửa, đặt chiếc khăn mặt bông đệm lót dưới phần eo lưng và một chiếc gối kê dưới đầu gối. Nếu bạn quen với việc nằm ngửa thì nên ôm chiếc gối trên bụng khi ngủ. Ngủ theo tư thế này sẽ giảm bớt áp lực cho lưng.


3. Đau cổ

Nếu bị đau cổ, bạn nên nằm ngửa khi ngủ, hai tay đặt lên hai chiếc gối. Nếu như bạn gặp vấn đề về đốt sống cổ, bạn nên chọn chiếc gối chuyên dùng. Không nên gối đầu cao quá mà nên chọn chiếc gối có độ dày bằng với bả vai. Nhiều người có thói quen nằm sấp và gối đầu lên chiếc gối mỏng, nếu nằm ngủ ở tư thế này lâu dài, nó sẽ dẫn đến đau cổ, do vậy cách tốt nhất là nên thay đổi tư thế nằm.


4. Mất ngủ

Người hay chơi điện thoại, máy tính trước khi ngủ sẽ rất dễ dẫn đến tình trạng mất ngủ. Bởi vì, ánh sáng xanh phát ra từ thiết bị sẽ ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ. Trước khi đi ngủ 6 tiếng, không nên uống quá nhiều cà phê. Người bị mất ngủ nên tăng cường luyện tập thể dục thể thao vào sáng sớm hoặc chiều tối, làm vậy sẽ khiến máu huyết lưu thông tốt, giúp bạn ngủ dễ dàng hơn.


5. Hay thức giấc khi ngủ

Nếu bạn hay bị thức giấc vào ban đêm, bạn không chỉ cần tránh xa các thiết bị điện tử mà còn không nên uống rượu. Rượu sẽ phá hủy sự cân bằng trong cơ thể và ảnh hưởng đến giấc ngủ. Đồng thời, bạn nên kiểm tra độ ấm trong phòng, nhiệt độ thích hợp nhất cho giấc ngủ tốt là 20 đến 22 độ C.


6. Khó thức dậy sớm vào buổi sáng

Rất nhiều người gặp phải tình huống này và rất khó thay đổi. Hãy đặt đồng hồ báo thức mỗi ngày và nếu muốn thức dậy sớm, hãy đi ngủ sớm hơn vào tối hôm trước.


7. Ngủ ngáy

Những người có tật ngủ ngáy thì không nên nằm ngửa và gối đầu lên chiếc gối mềm. Bạn nên nằm ngủ nghiêng về một bên, gối đầu lên chiếc gối cứng để mũi và miệng không bị chặn lại khi thở. Nên rèn luyện nhiều cơ lưỡi và cổ họng, nó cũng giúp làm giảm chứng ngáy ngủ.


8. Chuột rút chân

Rất nhiều người đã từng gặp qua các vấn đề về chuột rút ở chân, điều này là do tổn thương thần kinh gây ra, cũng có quan hệ với việc cơ thể thiếu các nguyên tố vi lượng. Nếu thường xuyên gặp phải tình huống này thì bạn nên đến bác sĩ kiểm tra. Bạn cũng có thể tập Yoga, trước khi ngủ nên mát xa chân một chút để tăng cường sức mạnh cho chân. Cánh tốt nhất để phòng bệnh là nên tăng cường rèn luyện và không nên ngồi một chỗ trong thời gian dài.


9. Các vấn đề tật bệnh khác

Nếu tim đập nhanh, bạn có thể nằm ngủ nghiêng về bên trái, tư thế ngủ này cũng giúp dạ dày không bị ợ nóng… Nếu bị đau chân, bạn có thể kê đệm một chiếc gối ở dưới chân để phòng ngừa máu huyết ứ đọng. Mát xa chân trước khi ngủ cũng giúp giải quyết vấn đề này.

Thực tế có rất nhiều nguyên nhân làm ảnh hưởng đến giấc ngủ, có thể do mệt mỏi, có thể đeo giày không thoải mái, cũng có thể do tiêu hóa hoặc vấn đề thần kinh. Nếu thân thể gặp vấn đề trong thời gian dài, nên tham khảo ý kiến của bác sĩ trong thời gian sớm nhất.




Nguồn:
http://mbi.daikynguyenvn.com/?p=455518
Read More ...

0 nhận xét


Người xưa có câu tục ngữ hay rằng: Người già vô đức cả nhà gặp họa; con cháu bất hiếu, không có phúc báo, đàn ông không có chí, gia đạo chẳng hưng thịnh; phụ nữ không nhu thuận, xua đuổi hết tài lộc. Chính vì vậy, chữ Đạo, Đức, Phúc… luôn đi liền nhau, gắn liền với vận mệnh con người.

1. Đạo của người già

Người già có đức là phong thủy tốt nhất, là phong thủy bậc nhất.

Người già là sao Thiên Đức của cả gia đình, lấy Đức làm gốc. “Đức” chịu trách nhiệm về sai sót của cả nhà, bình hòa sai sót của cả nhà.

Người già như tro tàn, ôn hòa không có hỏa khí, ít nói, không càm ràm, không nói này nói nọ về những người trong gia đình, dẫn dắt con cháu phải luôn nhìn vào mặt tốt của nhau và bao dung mọi người trong gia đình.

Không được quản chuyện vụn vặt, không được quá vướng bận bởi con cháu, “Con cháu có phúc của con cháu.”

Việc của con cái không nên can thiệp, buông tay nhường lại vị trí cho thế hệ sau gánh vác gia đình, không được mãi ỷ vào tư cách của người già.

Người già làm thế nào mới có thể khiến cả nhà hưng vượng? Phải làm nhiều việc thiện, tích nhiều âm đức. Vừa có thể tích đức miễn tội, vừa có thể bồi đắp cây Đức cho con cháu, chở che cho con cháu.

2. Đạo của người làm cha mẹ

Trên phải biết kính trọng người già, dưới phải biết yêu thương trẻ nhỏ. Dùng lòng cảm ơn để hoàn thiện mọi việc, khiến gia đình trên dưới hòa thuận.

Tuyên dương công đức của tổ tiên, của người già với con cháu, làm tấm gương tận hiếu tôn kính người già, dùng lòng cảm ơn ân đức của thế hệ cha ông để dạy dỗ thế hệ sau.

Không tự ý sắp xếp công việc cho người già, các cụ thích làm gì thì để các cụ làm nấy, nhưng phải quan tâm nhiều tới người già, thường xuyên phải khuyên các cụ nghỉ ngơi nhiều hơn.

Cha mẹ là khởi nguồn của mối quan hệ đạo đức giữa con người, là đạo Âm dương, Âm là mẹ, Dương là cha. Âm dương hòa hợp vạn vật mới có thể sinh trưởng, Âm dương bất hòa, tinh thần thống khổ, không tâm đầu ý hợp thì đứa trẻ được sinh ra, tính cách nhất định là không tốt, hoặc con cái sẽ bị khiếm khuyết.

Nếu con cái không nghe lời, không hiếu thuận, đầu tiên phải hỏi bản thân mình có hiếu thuận với người già hay không, có chỗ nào làm không đúng không. Trên không thừa nhận công đức của cha mẹ (người già), thì dưới sao có thể giáo dục con cái đến nơi đến chốn đây.

Không được oán hận con cái, càng không được đánh mắng con cái, bởi vì sự thành bại của con cái có liên quan tới việc tu tâm hành thiện của bản thân người làm cha làm mẹ. Thứ hai là phải suy xét xem phương pháp giáo dục con cái của mình phải chăng có chỗ nào chưa thỏa đáng.

“Quản” chính là việc cha mẹ phóng túng tính cách bản thân, tìm những chỗ sai sót của con cái, làm trái với tính cách của con cái, cho nên càng quản càng không thể quản được. Bởi vì dùng sự nóng giận để quản con cái thì không những quản không tốt, ngược lại còn kích động hỏa khí của con cái, gây nên rạn nứt, thậm chí có thể khiến cha con thù hận lẫn nhau, đây cũng là nguyên do cha mẹ không minh bạch về Đạo.

Con cái không cần quản, chỉ cần dựa vào việc cảm hóa đức hạnh. Hiểu được tính cách của nó, giúp nó chặt đi những cành cây nhỏ, lưu lại những cành cây lớn, không nuông, không chiều, không đánh, không mắng; khích lệ con cái nhiều hơn, khẳng định nhiều hơn, ít phê bình, không dụ dỗ chúng bằng vật chất.


3. Đạo vợ chồng

Cái gốc của việc xây dựng gia đình chính là tình yêu, không có tình yêu thì không thể xây dựng gia đình, tình yêu là điều kiện đầu tiên để tiến tới chuyện hôn sự.

Tình yêu rộng lớn vô điều kiện: Không quản người khác, không trói buộc bạn đời, cho bạn đời có quyền tự do.

Giữa vợ chồng biết bù trừ đắp đổi cho nhau, chứ không phải là oán hận nhau.

Vốn là việc của chồng, nhưng chồng quên mất không làm thì người vợ không được oán trách, mà cần chăm chỉ làm tốt việc đó; Ngược lại, người chồng cũng phải làm như vậy. Việc gì mà người bạn đời của mình không làm được thì tự mình bù đắp vào chỗ đó. Đây chính là việc đắp đổi cho nhau.

Sau khi lập gia đình, nếu người đàn ông không dẫn được người phụ nữ bước vào trong Đạo, không thể làm được việc trên hiếu kính cha mẹ, giữa yêu mến anh chị em ruột, dưới nhân từ với con cái, thì dẫu cho người ấy vô cùng tận hiếu thì người già cũng không thể yên lòng. Người phụ nữ khi kết hôn nếu không thể giúp chồng dựng lập uy đức, thì dù bản thân yêu kính cha mẹ, người già cũng không thể yên lòng.

Là chồng thì cần quan tâm chăm sóc cho cha mẹ vợ nhiều hơn, là vợ thì phải hiếu kính cha mẹ chồng nhiều hơn: Ví như khi mua đồ cho các cụ thì nên là con rể tự mình biếu cha mẹ vợ, con dâu tự mình biếu cha mẹ chồng.

Đàn ông có bổn phận của đàn ông, phụ nữ có bổn phận của phụ nữ, Âm dương đều tự có vị trí của mình. Đàn ông lấy cương chính làm gốc, phụ nữ lấy nhu hòa làm gốc, “Cương” là không tức giận, chính là hợp với chính đạo. “Nhu” thì tính mềm mại như nước, “Hòa” chính là phù hợp với Lý. Cho nên Cương chính chính là Nhu hòa, Nhu hòa chính là Cương chính, mặc dù danh từ gọi khác nhau, nhưng về tinh thần là như nhau.

Đạo vợ chồng chính là đạo Âm dương, chồng trọng nghĩa vợ nhu thuận, âm dương hài hòa, không chế ước lẫn nhau thì không chỉ không sinh bệnh. Đàn ông phải hiểu đạo của người phụ nữ, phụ nữ phải hiểu đạo của người đàn ông, có như vậy gia đình mới hòa hợp yên vui.

4.Đạo làm chồng

Đàn ông nam tử hán đại trượng phu nói lời phải giữ lấy lời, nói một là một, nói hai là hai, nói được thì phải làm được.

Nếu không làm được thì đừng nói, nói lời không giữ lấy lời thì không còn sự tôn nghiêm.

Có tư tâm thì sẽ ngấm ngầm làm chuyện trái với lương tâm, khiến cả nhà phiền não, loại người này không phải là người đàn ông tốt.

“Cương” không chỉ là không đánh không mắng người khác, mà bị mắng cũng không đáp lại, không phản bác, không buồn phiền, bị mắng cũng không tức giận, như vậy mới được gọi là Cương. Dẫu đối mặt với việc thuận ý hay trái ý vẫn an nhiên tự tại, làm được như vậy chính là bậc đại trượng phu.

Đàn ông có 3 kiểu: nhược phu (người đàn ông nhu nhược), bạo phu (người đàn ông thô bạo) và trượng phu.

Bậc trượng phu dám dũng cảm gánh vác trách nhiệm của cả gia đình, dùng lý thu phục con người, nhìn thấy sai lầm của cả nhà thì ngược lại tự mình thấy hổ thẹn.

Là bậc trượng phu, phải định vị được vị trí của mình trong “Tam cương” (Ba điều then chốt), Tam Cương là chỉ Tính cương (Điều then chốt về tính cách), Tâm cương (Điều then chốt về tâm tính), Thân cương (Điều then chốt về sức khỏe); không tức giận là Tính cương, không khởi dục vọng cá nhân là Tâm cương, không có những thói quen xấu là Thân cương. Tức giận thì Tính cương mất, mắng chửi người khác thì Tâm cương mất, đánh đập người khác thì Thân cương mất. “Cương” có nghĩa là cương lĩnh, phải dẫn dắt người phụ nữ vào trong Đạo, trên hiếu thuận với cha mẹ, giữa hòa hợp với chị em dâu, dưới nhân từ với con cái.

Đàn ông là trụ cột trong gia đình, phải hiểu đạo lý, phải có chí khí, dẫn dắt vợ mà không quản vợ.

Nếu đàn ông làm đến nơi đến chốn thì trong nhà ít vận hạn, nếu người đàn ông không làm đến nơi đến chốn thì trong nhà gặp nhiều tai ương.

5. Đạo làm vợ

Phụ nữ phải nhu hòa, mỉm cười hiền hòa, dung hợp nhân duyên của mọi người trong gia đình. Mềm mại ứng biến như nước, hòa hợp không tranh giành với vạn vật.

Phụ nữ nhiều chuyện thì đàn ông sẽ im lặng, phụ nữ không nhu thuận thì gia tài không vượng.

Không nên cứng nhắc thô bạo, không được nóng nảy, không được than vãn nhiều lời, lại càng không nên quản việc của đàn ông.

Phụ nữ cũng có 3 kiểu người: hãn phụ (người phụ nữ hung hãn), nhược phụ (Người phụ nữ nhu nhược), tức phụ (con dâu). Người phụ nữ cứng nhắc thô bạo, quản việc của đàn ông, áp chế người đàn ông về mặt tinh thần, nói năng như sấm chớp, được gọi là hãn phụ (Người phụ nữ hung hãn). Gia đình kiểu này âm thịnh dương suy, người chồng chưa già đã yếu, thậm chí còn chết yểu, con cái sinh ra cũng vô dụng.


ST và tổng hợp
Read More ...

0 nhận xét

Đối với một số người, cách tốt nhất để thay đổi thói quen là tập dần từng bước nhỏ, để tránh sự sợ hãi và chần chừ (do mục tiêu quá lớn), từ đó dần dần tạo ra thói quen mới. 


Đối với một số người, cách tốt nhất để thay đổi thói quen là tập dần từng bước nhỏ, để tránh sự sợ hãi và chần chừ (do mục tiêu quá lớn), từ đó dần dần tạo ra thói quen mới.

Một số người khác thuộc kiểu bị “dính” vào thói quen cũ. Đối với những người này, cách tốt nhất để thay đổi cuộc sống là tạo ra một cú sốc nhanh và mạnh.

Nếu bạn thuộc loại thứ hai thì 30 ngày thử thách này có thể dành cho bạn.

Bằng cách tạo ra cam kết một sự thay đổi lớn cho cuộc sống với một ranh giới được xác định, bạn sẽ làm tê liệt nỗi sợ thất bại và sự mơ hồ của mình.

Dưới đây là 12 ý tưởng được chọn lọc từ ý kiến và kinh nghiệm của nhiều người đã được đăng trên trang web hỏi và trả lời Quora, và một trong số đó là doanh nhân, nhà đầu tư, nhà văn James Altucher - một triệu phú tự thân được yêu mến.

1. Tập thương lượng  mỗi ngày 1 lần

“Ví dụ, tại Starbuck, bạn yêu cầu giảm giá 10%”, Altucher đề nghị. Điều này không chỉ giúp bạn vượt qua nỗi sợ hãi và trau dồi kỹ năng thương lượng, mà còn giúp bạn biết rằng mọi người có khả năng đồng ý với yêu cầu của bạn nhiều hơn bạn nghĩ.

2. Tập nói "Không"

Bạn không muốn thực hiện yêu cầu của một ai đó? Nhà văn Nelson Wang đã gợi ý rằng ít nhất 30 ngày sau đó, bạn chỉ cần nói không với họ. (Trừ một số yêu cầu cấp thiết, như từ sếp hoặc từ những đứa trẻ của bạn). Một tháng là khoảng thời gian giúp bạn thiết lập các ưu tiên của bản thân và chứng minh bạn sẽ đạt những gì nếu biết quản lý thời gian cùa mình. Tuy nhiên, bạn cũng cần đối diện với một sự thật đau lòng rằng mọi người có thể quay lưng với bạn khi thỉnh thoảng bạn đặt nhu cầu của mình lên trước.

3. Thoát khỏi phương tiện truyền thông

Rất nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng bạn sẽ hạnh phúc hơn khi không có Facebook. Cho nên Evopaper - CMO Max Lukominskyi đã đảm bảo rằng “Bạn sẽ lập tức nhận ra ngày của bạn sẽ dài hơn nếu không có mạng xã hội”.

4. Ngưng phàn nàn 

Khoa học đã chỉ ra rằng điều này giúp não của bạn thông suốt hơn. Đây là thử thách khó nhất trong danh sách của Altucher, bởi ông đã nhận ra “Bất kỳ khi nào tôi cố gắng làm việc này, tôi đều thấy tâm trí mình đang tập trung vào những suy nghĩ phàn nàn”.

5. Ăn nhiều thức ăn xanh

Nelson Wang - Nhà văn, nhà báo chuyên viết về phát triển bản thân trên Forbes, Inc., Business Insider cho rằng: “Thực phẩm xanh (rau, trái cây hoặc nước trái cây tươi) có thể có thể thay đổi cuộc sống của bạn. Bạn sẽ thấy khỏe hơn và giàu năng lượng hơn”.

6. Hài hước

Altucher cam đoan rằng một buổi nói chuyện hài hước mỗi tuần có thể làm thay đổi cuộc sống của bạn. Ông nhấn mạnh: “Điều này phá vỡ quan niệm trước đây của tôi, rằng hài hước là việc tôi thể hiện sự ngốc nghếch trước một đám người lạ”.

7. Nói chuyện với một người lạ mỗi ngày

Nếu việc đứng nói trước đám đông là quá sức với bạn, thì nhà khoa học dữ liệu đồng thời là doanh nhân Mike Farkas đề nghị: “Hãy nói chuyện với một người lạ mỗi ngày. Nó không cần là một cuộc trò chuyện dài. Bạn chỉ cần bắt đầu bằng một cuộc trò chuyện nhỏ”.  Đối phó với sợ hãi là cách tuyệt vời để vượt qua chúng.

8. Thức dậy sớm một cách vui vẻ

Doanh nhân Skyler Irvine đã “vô tình” thực hiện thử thách này khi đứa con mới sinh làm ông ấy thức dậy lúc 4 giờ 30 mỗi ngày, sau đó ông đã quen với thay đổi này và đánh thức 4 người còn lại trong nhà cùng dậy. Ông nói rằng: “Việc này đã tác động tới tôi mạnh mẽ trong suốt quãng đời còn lại. Tôi thấy năng suất làm việc của mình tăng cao. Thức dậy lúc 4 giờ, cho con gái của tôi ăn lúc 4 giờ 30, kế đến tôi có 3 tiếng cho bản thân mình trước khi cả thế giới thức dậy. Đây là điều không thể tin được”.

9. Tắm bằng nước lạnh

Khoa học đã chứng minh tắm bằng nước lạnh giúp bạn làm việc năng suất hơn trong thời gian còn lại của ngày.

10.  Trả lời email cũ

Đây là một gợi ý từ Altucher: “Trả lời email cho một người từ 10 năm trước mà bạn chưa bao giờ trả lời (2 hay 5 năm trước cũng được). Nó không chỉ giúp bạn kết nối lại với những người đã mất liên lạc, mà còn giúp bạn nhận ra thật thú vị khi làm người khác vui. Thêm vào đó, làm người khác cười cũng là cách tuyệt vời để giúp bạn thấy hạnh phúc hơn”.

11. Viết lách

Altucher có 18 quyển nhật ký viết những thói quen hằng ngày của mình, tuy nhiên việc này không chỉ dành cho những người có khả năng viết. Theo các chuyên gia, đơn giản là bạn đặt suy nghĩ của bạn vào trang giấy. Đó sẽ cách tuyệt vời để bạn tăng cường trí lực và phát huy khả năng sáng tạo. Doanh nhân Ilyas Bakouch cũng ủng hộ thử thách này, ông gọi nó là “điều tuyệt vời cho trí nhớ, sự phản chiếu của quá khứ, và là một điều đáng kinh ngạc khi nhìn lại sau đó”.

12.  Nâng cao kỹ năng hít đất

Nếu bạn quan tâm nhiều đến việc cải thiện sức khỏe của mình, thì nhà khoa học Lukas Tencer đề xuất thử thách hít đất 30 ngày. Đơn giản là hãy thực hiện nhiều nhất có thể số lần hít đất khi bạn ra khỏi giường vào mỗi buổi sáng, tập cho tới khi bạn có thể thực hiện 30 cái hít đất cùng một lúc. Điều này giúp bạn cải thiện sức khỏe mà không tốn nhiều thời gian, đảm bảo bạn sẽ hài lòng với kết quả đạt được.

Nguồn: Internet
Read More ...

0 nhận xét

Đây là những ký tự phổ biến mà hầu như ai trên thế giới cũng phải sử dụng ít nhất một lần mỗi ngày. Thân quen là thế nhưng bạn có chắc rằng mình biết nó đến từ đâu không?

Dấu chấm hỏi


Trong tiếng Latinh, chữ “questio” thường được đặt ở cuối mỗi câu hỏi để chỉ rõ rằng đó là một câu nghi vấn. Vì muốn tiết kiệm diện tích giấy, những người cổ xưa đã chọn cách rút gọn chữ questio là lại thành “qo” và chữ cái “o” được đặt dưới chân chữ “q”. Dần dần về sau, cách viết này được biến tấu, đơn giản hoá đi bởi lối viết nhanh của người hiện đại, chữ “q” sau này có dạng móc câu và chữ “o” chính là dấu chấm dưới móc câu đó: ?

Dấu mũi tên


Biểu tượng mũi tên được người Hy Lạp cổ đại sử dụng để chỉ một đoạn đường dẫn đến một địa điểm nào đó. Thật ra trước đây, hình vẽ đầy đủ của biểu tượng này là một bàn chân 5 ngón với ý chỉ đường đi bộ.


Thế nhưng, sau nhiều trận mưa lớn, những biển chỉ đường cổ xưa bị bào mòn bởi sự tấn công của thời tiết, các đường khắc của dấu chân dần biến mất, qua năm tháng nó chỉ còn những nét vẽ tạo thành một hình mũi tên như dấu hiệu phổ biến mà chúng ta đang dùng trong cuộc sống ngày nay.

Ký hiệu $ (đô la)


Có rất nhiều giai thoại về nguồn gốc của ký hiệu được mọi lứa tuổi yêu thích, tuy nhiên theo lịch sử, khả năng cao nhất về xuất xứ của ký hiệu $ đó là nó được biến tấu từ đơn vị tiền tệ của Tây Ban Nha - đồng bạc Tây Ban Nha (Spanish real), đơn vị tiền tệ phổ biến nhất trong thời trung cổ. Loại tiền này được viết tắt là PS. Cuối cùng, sau nhiều thay đổi từ thói quen viết chữ, PS được viết theo kiểu chỉ giữ lại phần đường thẳng trong chữ P và viết chồng nó lên chữ S.

Vào thời kì Mỹ là thuộc địa của Tây Ban Nha, họ đã đóng dấu những thỏi vàng được khai thác ở Mỹ bằng chữ S. Khi được chuyển đến nơi lưu trữ, người ta sẽ gạch một gạch dọc lên chữ S và nếu bị trả lại, người nhận sẽ gạch thêm một gạch dọc nữa trên chữ S để dễ dàng phân biệt. Biểu tượng tiền tệ Mỹ ra đời từ đó.

Dấu chấm cảm 


Tương tự như dấu hỏi, ký hiệu xuất phát từ tiếng Latinh này được rút ngắn từ chữ “exclamatio” - một từ ngữ được đặt cuối câu để diễn tả niềm vui. Sau này nó được viết tắt thành I và O, với chữ O nằm dưới chữ I. Cho đến thời điểm hiện tại, cách viết nhanh đã biến tấu hai chữ I & O thành dấu ! mà chúng ta thường sử dụng.

Ký hiệu vô cực


Ký hiệu vô cực lần đầu tiên được John Wallis - một nhà toán học nổi tiếng người Anh sử dụng vào năm 1655, khi đó không một ai biết nó xuất phát từ biểu tượng nào. Có một vài nhận xét cho rằng ký hiệu này được vẽ theo nguyên tác chữ Omega của người Hy Lạp cổ (ω), một nhận định khác lại chỉ ra những nét tương đồng giữa ký hiệu vô cực và biểu tượng chỉ số 1000 của người La Mã: “CIƆ“ hoặc ”CƆ.”

Ký hiệu phần trăm (%)


Chữ “phần trăm” (percent) có nguồn gốc từ cụm từ hiển thị số 100 của Latinh: per centum. Sau này nó trở thành “per cento, rồi thay đổi cách viết thành “per 100”, “p cento” và cuối cùng là “pc-o”. Trong thời cận đại, người ta viết “pc” để hiển thị phần trăm. Còn trong thời hiện đại, nó được biến tấu thành cách viết “o/o” (%).

Biểu tượng hoà bình 


Hai ngón tay hình chữ V (biểu tượng của hoà bình) được sử dụng lần đầu tiên trong cuộc chiến tranh trường kì giữa Anh và Pháp, khi những binh sĩ Pháp doạ cắt tay những cung thủ người Anh mà họ bắt được. Sau đó, người Anh bắt đầu khai sinh ra cử chỉ giơ cao hai ngón tay, tạo thành chữ V (chiến thắng) với ý chỉ những ngón tay mà người Pháp doạ sẽ cắt của họ vẫn còn nguyên vẹn. Trong suốt Thế chiến thứ II, thủ tướng Anh Winston Churchill đã sử dụng lại hành động này, dần dần biến nó thành biểu tượng của Hoà bình.

Theo SaoStar
Read More ...

0 nhận xét